Đề bài: Phân tích bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm
Dàn bài và những ý chính cần nắm vững
I. Tác giả:
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ như: Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Nguyễn Duy, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hòang Nhuận Cầm, Lê Anh Xuân…. Đây là lớp nhà thơ trưởng thành từ ghế nhà trường, không chỉ có trình độ văn hóa, niềm say mê lý tưởng mà còn có mặt trực tiếp trong cuộc kháng chiến dân tộc.
Họ ý thức cao về vai trò và trách nhiểm của tuổi trẻ về đất nước, những trang thơ của họ nóng bỏng, nhiệt tình yêu nước và hiện thực kháng chiến của dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm xuất thân từ một gia đình trí thức cách mạng ở Huế, bản thân ông tham gia trực tiếp vào phong trào đấu tranh sinh viên nên thơ Nguyễn Khoa Điềm rất giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén mang tâm tư của người trí thức….
II. Đề tài Tổ quốc:
Tổ quốc là một đề tài phong phú của thơ ca Việt Nam. Trước NKĐ đã có nhiều bài thơ hay, nhiều tác giả thành công về đề tài này. Đất nước anh hùng trong kháng chiến chống Pháp, mang hồn thu Hà Nội của Nguyễn Đình Thi. Đất nước cổ kính, dân gian, mang hồn quê Kinh Bắc của Hòang Cầm. Đất nước hóa thân cho một dòng sông xanh, đầy ắp kỉ niệm trong thơ Tế Hanh. Đất nước hài hòa trong dáng hình quê hương và tình yêu đôi lứa trong thơ Giang Nam. Nhưng, NKĐ đã tìm đc một cách nói riêng để chương thơ mới của ông đã mang lại cho bạn đọc những rung cảm thẫm mĩ mới về đất nước: Đất nước của nhân dân.
III. Nguồn gốc đọan trích:
Đất nứơc là phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, viết năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang hết sức khốc liệt mà bản thân nhà thơ trực tiếp có mặt.
Ý nghĩa đọan trích
Đọan trích thâu tóm ý nghĩa của tòan bộ chương V. Chương thơ là sự cảm nhận về Đất nước một cách cụ thể, sâu sắc mà cốt lõi trong tư tưởng là: Đất nứơc của Nhân dân. Từ đó, nhà thơ bộc lộ lòng yêu quý, niềm tự hào, sự gắn bó và trách nhiệm với đất nứơc thân yêu. Tư tưởng chủ đạo này đc NGuyễn Khoa Điềm triển khai ở nhiều bình diện: Địa lí, lịch sử, văn hóa và thể hiện bằng hình thức thơ trữ tình chính luận, giọng thơ tâm tình, lời thơ dậm đà sắc thái dân gian, nhưng đặc biệt, gợi cảm, để lại ấn tượng sâu sắc cho bạn đọc.
IV. Lịch sử đất nước
1. Đất nứơc có từ bao giờ?
Mở đầu khúc ca, nhà thơ đưa ng đọc trở về với cội nguồn of đất nước: Đất nước có từ bao giờ?
“Khi ta lớn lên…đất nước có từ ngày đó”
“Ta” vừa là nhân vật trữ tình, vừa là mỗi chúng ta – những ng dân đất Việt. Đúng là, khi mỗi chúng ta lớn lên, đất nước đã có rồi. Dù chưa đủ trí tuệ để hiểu đất nứơc với những khái niệm trừu tượng như cương vực, lãnh thổ, chủ quyền, nhưng mỗi chúng ta cũng đã cảm nhận đc đất nứơc là một cái gì đó rất gần gũi, qua những câu chuyện truyền thuyết, cổ tích mẹ thường kể từ thuở nằm nôi. Lời thơ “ngày xửa ngày xưa” mang điệu hồ của những câu chuyện huyền thọai, đưa ta về một thuở rất xa, khi đất nước phôi thai. Những từ “bắt đầu, lớn lên” tuy ko xác định time cụ thể nhưng lại khẳng định quá trình hình thành lâu đời của đất nước.
Từ phong tục tập quán:
Đất nước được hình thành từ những truyền thống cao đẹp như truyền thống yêu nước, lao động, văn hóa. Trứơc hết là truyền thống văn hóa phong tục lâu đời của nhân dân. Từ miếng trầu dung dị của bà, mái tóc bới hiền hòa của mẹ, cách gọi tên “cái kèo, cái cột” dân dã đến tình yêu gắn bó thủy chung qua gừng cay muối mặn của cha mẹ. Tất cả những điều tưởng chừng như bình thường ấy đã trở thành nếp sống, thành phẩm chất tốt đẹp, thành thuần phong mĩ tục đậm đà bản sắc Việt Nam.
Từ truyền thống yêu nước:
Câu thơ “Đất nứơc lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” gợi nhớ truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre làng đánh giặc Ân thuở xa xưa. Truyền thống yêu nước, bền bỉ kiên cường giữ nước luôn đc khơi dậy qua những lời kể đậm đà của mẹ và trở thành hồn thiêng dân tộc.
Từ truyền thống lao động:
Ông bà, cha mẹ chúng ta đã phải trải qua bao gian nan một nắng hai sương, đã đổ bao mồ hôi với bao công việc nhà nông nhọc nhằn “xay giã giần sàng” mới làm ra hạt gạo dẻo thơm. Hạt gạo là vật chất, nhưng cũng là sự sống, là cội nguồn văn hóa của dân tộc. Truyền thống lao động cần cù từ bao đời của nhân dân cũng là một phần của hồn nứơc.
Tiểu kết:
Chín dòng thơ đầu là cảm nhận của nhà thơ về sự hình thành và phát triển lâu đời của đất nước. Đất nước đc cảm nhận cụ thể trong những cái hằng ngày như“miếng trầu, hạt gạo”, trong những gương mặt dung dị, đời thường của nhân dân, trong mối quan hệ ruột thịt thân thương như “ông – bà”, “cha – mẹ”, ngay trong mái nhà của mỗi chúng ta cũng hiện diện dáng hình đất nước. Ẩn trong đó là tình yêu nứơc thiết tha, niềm tự hào về đất nước thân thương, gần gũi. Hình ảnh thơ hàm súc, giàu chất liệu văn hóa, văn học dân gian nên có sức lắng đọng sâu sắc.
Những chất liệu dân gian ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kì diệu, đủ sự gợi lên một hồn thiêng sông núi. Điều đó ko đơn thuần chỉ là thủ pháp nghệ thuật, cũng ko phải là một môtúyp sáng tạo văn học dân gian. Có thể nói, tư tưởng “đất nứơc của nhân dân” – tư tưởng chủ đạo của trang thơ đã thấm nhuần từ quan điểm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của tác phẩm.
2. Đất nứơc là gì?
Đất nước là những gì gần gũi, thân thương:
Mượn hình thức trò chuyện, tâm tình với một ng con gái yêu thương, nhà thơ đã định nghĩa đất nước theo cách riêng của mình, theo cách đặc biệt của thơ. Và ở đọan thơ tiếp theo, vận dụng tính đơn lập của tiếng Việt, NKĐ đã tách từ “Đất nước” thành hai thành tố “đất” và “nước” để có thể đi sâu vào khái niệm, biến khái niệm “đất nước” trừu tượng thành cụ thể, gợi cảm:
“Đất là nơi anh đến trường…nỗi nhớ thầm”
Ý thơ rất mới mẻ, cụ thể. Đất nứơc trở thành những gần gũi, thân thương, gắn bó với mỗi ng. Thân thương như mái trường ta học, như dòng sông em tắm, như góc phố, đình làng, ao sen, lũy tre, cây đa, bến nước – nơi lứa đôi hò hẹn. Một không gian nhỏ, chỉ hai ng biết, hai ng hay rất riêng tư nhưng cũng đậm đà hồn quê hương xứ sở. Đất nước còn thân thương như câu ca dao tình yêu quen thuộc cất lên từ mỗi xóm làng:
“Khăn thương nhớ ai khăn rơi xuống đất
Khăng thương nhớ ai khăn vắt lên vai”
Đất nước mênh mông không phải tự nhiên mà có:
Vẫn mạch cảm xúc thiết tha, nhà thơ say sưa lí giải:
“Đất là nơi con chim phượng hòang…đất nứơc là nơi dân mình đòan tụ”
Lấy ý từ những câu dân ca Huế mượt mà, câu thơ đưa ng đọc về với không gian thân thương. Những từ “núi bạc, biển khơi” mang âm hưởng thành ngữ dân gian, gợi ra một đất nước mênh mông, giàu đẹp. Sự mênh mông, giàu đẹp đó ko tự nhiên mà có đc, nó gắn với thời gian đằng đẵng, dài lâu, liên tục, bền bỉ mà nhân dân ta đã đổ bao mồ hôi, nước mắt và cả máu nữa, để xây dựng bờ cõi đất nước thành dải đất chữ S thân thuơng, cho “dân mình đòan tụ” trong yêu thương tự hào bởi:
Đất nước là nơi chim về, rồng ở:
“Đất là nơi chim về…bọc trứng”
Những hình tượng quen thuộc trong thần thọai, truyền thuyết như “chim, rồng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, bọc trăm trứng” cùng tụ về trong trường liên tưởng của nhà thơ. Sự hội tụ ấy làm bật lên ý thơ có tầm khái quát cao: dân tộc ta là “con rồng cháu tiên, trai tài gái sắc”, đất nứơc ta là “đất lành chim về, đất thiêng rồng ở”, dân tộc Việt là anh em một nhà, cùng đc sinh ra từ bọc trăm trứng của cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ. Một đất nước có cội nguồn văn hóa và truyền thống lâu đời rất đỗi thân thương và tự hào như thế, chính là “Đất nước của nhân dân”
3. Trách nhiệm với đất nước:
Đất nứơc qua cách cảm nhận của NKĐ không khô khan, trừu tượng mà tươi rói cảm xúc. Đất nước gắn liền với đời sống, số phận của từng cá nhân ở mọi phương diện: lịch sử, địa lí, văn hóa. Đất nứơc còn là sự kết tinh sâu sắc những giá trị tinh thần từ quá khứ “những ai đã khuất”, đến hiện tại “những ai bây giờ” và tương lai “yêu nhau và sinh con đẻ cái”.
Đặc biệt, mỗi thế hệ, mỗi cá nhân, đều gắn bó với đất nước, nhất là trách nhiệm của thế hệ hôm nay vô cùng nặng nề nhưng vinh quang: Chúng ta vừa phải gánh vác những công việc nhọc nhằn mà ông cha giao lại, vừa phải “dặn dò con cháu chuyện mai sau” một cách ân cần, chu đáo, để các thế hệ sau sẽ tiếp tục đưa đất nứơc đi xa, đến một chân trời hòa bình, hạnh phúc, ấm no, giàu mạnh. Đó là mơ mộng, là khát vọng của thời đại nhà thơ nhưng là hiện thực tất yếu của tương lai. Ước mơ ấy, ngày nay đã thành sự thật. Lời thơ trong sáng, ấp ủ niềm tin giữa những ngày đánh Mĩ của nhà thơ thật cao đẹp và đáng quý.
Vì sự mưu sinh, mỗi ng có thể làm ăn và lập nghiệp ở bất cứ nơi đâu, nhưng trong thẫm sâu tâm hồn, mỗi chung ta đều mang trong ng dòng máu Lạc Hồng. Những giờ khắc thiêng liêng nhất, niềm tự hào đối với truyền thống dân tộc lại trỗi dậy mãnh liệt:
“Hằng năm ăn đâu làm đâu…giỗ Tổ”
Hai chữ “cúi đầu” đầy yêu thương thành kính với đất nước. Ở đây, nhà thơ đã phát hiện ra một chân lí giản dị mà sâu sắc
“Trong anh và em hôm nay…một phần đất nước”
Giọng thơ tâm tình, với lối xưng hô anh – em tha thiết, nhà thơ như nhắn nhủ: đất nước ko chỉ tồn tại khách thể, mà đã hóa thân trong máu xương mỗi ng, trở thành một phần tâm hồn trí tuệ của “anh và em”. Sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận mệnh cộng đồng là tư tưởng chung của thời đại. “Khi hai đứa cầm tay’ tình yêu lứa đôi riêng tư đã tự mang trong nó vẻ đẹp hài hòa nồng thắm của tâm hồn dân tộc. “Khi chúng ta cầm tay mọi ng”, tình yêu của hai đứa gắn bó với cái chung của tình yêu đất nước. Mỗi chúng ta đã nối vòng tay lớn vào cộng đồng, tạo nên một khối đại đòan kết dân tộc, làm cho đất nước “vẹn tròn to lớn”, trường tồn và phát triển.
Trách nhiệm với đất nước, cũng chính là trách nhiệm với chính bản thân mình bởi
“Đất nước là máu xương của mình”
Vì thế, mỗi chúng ta đều tự nhiên gắn bó với đất nước bằng tình yêu thiết tha, san sẻ với cộng đồng bằng ý thức trách nhiệm và khi cần có thế “hóa thân”bằng hành động hi sinh cho đất nứơc. Động từ “hóa thân” đc nhà thơ sử dụng ko chỉ phù hợp với màu sắc dân gian của chương thơ mà còn diễn ta sâu sắc sự tự nguyên dâng hiến trọn vẹn cho đất nước để bất tử hóa cùng non sông của mỗi ng dân. Điệp ngữ “phải biết” vừa như một mệnh lệnh, vừa là tiếng nói thúc giục của con tim, tạo thành chất trữ tình chính luận sâu sắc
Tiểu kết:
Được bao bọc trong không khí của văn học dân gian, hình tượng đất nứơc trên trang thơ của NKĐ thơ mộng, trữ tình như từ xa xưa vọng về, bình dị mà thân thương gắn bó thiết tha với mỗi ng dân. Cảm nhận về đất nứơc tản mạn mà thống nhất, sâu sắc. Hai chữ “đất nứơc” đc viết hoa và điểm lại nhiều lần như một con mắt thơ đầy kính yêu, tự hào. Nhà thơ định nghĩa về đất nước bằng thơ, lời thơ lấp lánh màu sắc của huyền thọai dân gian, vừa lung linh vẻ đẹp trí tuệ, vừa thiết tha cảm xúc, tạo nhiều âm vang trong lòng ng đọc
So sánh:
Nếu “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi mang đậm sắc thái hiện đại, gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp đau thương nhưng anh dũng và kiên cường thì“Đất nước” của NKĐ lại đậm đà phong vị dân gian, gắn với cội nguồn văn hóa của dân tộc. Cùng tỏa sáng tình yêu và niềm tự hào đối với đất nứơc, nhưng mỗi bài thơ có một vẻ đẹp riêng, khiến cho cảm hứng về quê hương trở nên đa dạng, hấp dẫn.
V. Đất nước của nhân dân – tư tưởng cốt lõi:
Nếu như phần đầu khúc ca, tác giả nói về lịch sử cùng với định nghĩa đất nước bằng thơ theo cách riêng của mình. Thì bốn mươi bảy dòng thơ tiếp theo nhà thơ đi sâu vào tư tưởng đất nước của nhân dân bằng cách nhìn tòan diện không gian địa lí và thời gian lịch sử.
1. Phương diện địa lí:
“Những người vợ nhớ chồng…Bà Đen, Bà Điểm”
Tư tưởng đất nước của nhân dân dẫn nhà thơ đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lý. Bằng thủ pháp liệt kê độc đáo, ng đọc được tiếp nhận một phát hiện mới rất thú vị: những danh lam thắng cảnh trên đất nước ta như Vịnh Hạ Long, những di tích văn hóa như Hòn Vọng Phu, Núi Bút, Non Nghiên, những di tích lịch sử như Làng Gióng, Đất Tổ trải dài trên khắp đất nước ta. Tất cả không chỉ là địa hình núi sông thuần túy mà tạo hóa đã ban tặng, mà còn đc cảm nhận như một sự đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những cảnh ngộ, số phận của nhân dân và thấm đẫm vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân: thủy chung, yêu nước, hiếu học…
Nếu ko có những ng vợ VN chung thủy đợi chồng, mòn mỏi qua bao cuộc chiến tranh và li tán thì ko thể có cảm nhận Núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái. Phải chăng truyền thuyết Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt, nhổ tre làng đánh giặc Ân đã khiến ao đầm làng gióng lấp lánh vẻ đẹp của tinh thần yêu nước? Một truyền thuýet Hùng Vương nên địa hình núi sông hùng vĩ quanh đền Hùng mới đc gọi là “Chín mươi chín…đất tổ HV”. Niềm tự hào về mảnh đất thiêng, về xứ sở thanh bình dạt dào sông nước đã hóa thành tên gọi Cửu Long – tên một dòng sông xanh thẫm đất phương Nam.
Truyền thống hiếu học của những ng học trò nghèo VN bao đời đã đc tạc ghi trong tên gọi “Núi Bút, Non Nghiên”. Cuộc sống bình dị và sự đóng góp thầm lặng, khai khẩn đất hoan của những ng dân đã đặt tên cho non núi “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”. Đến cả “con cóc, con gà quê hương” cũng “góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”, thành đất nước dung dị mà tươi đẹp
Hình ảnh núi sông hội tụ lấp lánh qua những vầng thơ, soi bóng tâm hồn của những cuộc đời vô danh, càng thấm thía một điều bình dị: Đất nước của nhân dân, đất nước mang màu sắc dân gian, dân dã, thiêng liêng, gần gũi…
“Và ở đâu…núi sông ta”
Ý thơ đc nâng lên tầm khái quát, sự hóa thân bóng hình của nhân dân vào đất nước đã lý giải chính nhân dân là ng tạo dựng, đã đặt tên, ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, miền đất
2. Phương diện lịch sử:
Đó là nhìn ở phương diện ko gian địa lí, còn nhìn ở phương diện lịch sử – thời gian, nhà thơ cũng đã khẳng định tư tưởng Đất nước của nhân dân. Chính tư tưởng này đã chi phối toàn bộ suy nghĩ of nhà thơ khi nhìn vào lịch sử bốn ngàn năm đất nước:
“Em ơi em…nuôi cái cùng con”
Khi nói về lịch sử of đất nước, NKĐ ko nhắc đến các triều đại tên tuổi như Đinh, Lý, Trần, Lê, cũng ko nhắc đến những anh hùng đã từng đc khắc tên trong sử sách, nhà thơ chỉ tập trung nói về những con ng vô danh, bình thường. Đó là “họ”, là “lớp lớp, con gái, con trai” đã lao động chiến đấu suốt bốn nghìn năm để dựng nứơc và giữ nước. Họ là Nhân dân. Tên tuổi họ chưa một lần đc khắc ghi trong sử vàng dân tộc “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng cuộc đời thầm lặng of mỗi ng đã “hóa núi sông ta”. Cảnh sắc núi sông gắn liền với tâm hồn dân tộc, khí phách of giống nòi.
Cái bình dị tồn tại quanh ta, hòa quyện với cái cao cả, thiêng liêng, cho thấy vẻ đẹp vĩnh hằng of đất nước và sự trường tồn of dân tộc gắn liền với muôn triệu nhân dân of mọi thế hệ, trôi theo dòng chảy văn hóa đất nước:
“Có biết bao ng con gái con trai…làm ra Đất Nước”
3. Phương diện văn hóa:
Khi nhìn vào phương diện văn hóa, nhà thơ cũng khẳng định vai trò of nhân dân:
“Họ giữ và truyền cho ta….mỗi chuyến di dân”
Đất nước of nhân dân ko chỉ hiện diện ở bề rộng of ko gian địa lí, ở chiều dài of thời gian lịch sử mà còn ở thẳm sâu của tâm hồn, tầm cao of lí trí giống nòi, bề dày of văn hóa, phong tục. Nhân dân ko chỉ lao động, chiến đấu, mà con là những ng sáng tạo ra văn hóa dân tộc. Hàng lọat những động từ đc liệt kê “giữ, truyền, chuyền, đắp, be, trồng cây, hái trái” thể hiện sự cần cù, siêng năng, tinh thần chăm lo lao động của bao thế hệ VN. Những “hạt lúa, hòn than, tiếng nói”đều rất giản dị nhưng lại chính là sự sống of mỗi cá nhân, sự sống of cả dân tộc, là nền văn hóa, là hồn thiêng sông núi mà chính nhân dân đã sáng tạo, giữ gìn, truyền qua muôn đời, tạo thành bản sắc văn hóa VN.
Mạch cảm xúc này dâng lên thành cao trào, để nhà thơ khẳng định một chân lí:
“Để đất nứơc này là…ca dao thần thọai”
“Đất nước of nhân dân” cũng chính là “đất nước of ca dao thần thọai”, bởi nói đến nhân dân là nói đến những nét đẹp bình dị mà tinh túy, những nét đẹp này vẫn lấp lánh trong ca dao, thần thọai. Hay nói cách khác “ca dao thần thọai”chính là sáng tác of nhân dân, phản ánh đời sống, tâm tư, tình cảm of nhân dân.
Nếu Lí Thường Kiệt với Nam Quốc Sơn Hà đã phải dùng “đế cư, thiên thư” để trang trọng hóa đất nước, nếu Nguyễn Đình Chiểu với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, phải nhờ đến “Một mối xa thư đồ sộ, hai vầng nhật nguyệt chói lòa” để thiêng liêng hóa đất nước, thì với hệ thống từ ngữ giản dị, mang đậm văn hóa dân gian, NKĐ đã bình dị hóa đất nước, làm cho đất nước hóa thân trong tâm hồn và cụôc sống của mỗi ng dân trong đất nước này.
“Dạy anh biết yêu em…không sợ dài lâu…sông xuôi”
Ở đọan thơ này, nhà thơ đã vận dụng và chuyển ý sáng tạo những câu ca dao thành lời thơ đằm thắm, ca ngợi nhân dân, ca ngợi bản sắc dân tộc. Trong cả kho tàng ca dao dân ca phong phú của dân tộc, nhà thơ đã chọn lọc ba câu đểe nói về ba phương diện truyền thống của nhân dân. Đó là sự say đắm trong tình yêu nhân văn – “dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”, đó là quý trọng lối sống tình nghĩa – “biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” và một phẩm chất nữa là bền bỉ kiên cường trong chiến đấu giữ nước – “biết trồng tre…dài lâu”
Vẫn là ý và hình ảnh của những câu ca dao, vẫn gợi ý tứ của ca dao nhưng đã trở thành một câu thơ, gắn bó với toàn mạch cảm xúc của chương V.
Đó chính là nét đặc biệt of chương thơ Đất nước. Cái gì đã làm cho nước VN tồn tại mà ko xóa nhòa bản sắc of mình? Cái gì đã làm cho con ng VN có một truyền thống văn hiến rực rỡ? Chính là nhân dân VN đã sống rất đôn hậu, nhiệt tình, đời thường, ngay cả những khi hòan cảnh lịch sử phá vỡ ko khí đời thường đó. Đọan thơ khép lại bằng hình ảnh “dòng sông” và “câu hát” đem lại cảm nhận: đất nứơc ta đẹp hiền hoà và vĩnh cửu như một dòng sông vô tận, chảy từ quá khứ đến hiện tại và vĩnh hằng với tương lai.
Trên dòng sông đất nước, âm vang những sắc màu và giai điệu văn hóa VN, phẩm chất tâm hồn VN vô cùng tự hào và yêu quý. Thán từ “ôi” mang một cảm xúc vỡ òa giữ dòng chảy văn hóa. “Gợi trăm màu” là một cách hình tượng hóa ngôn ngữ, nhưng đồng thời cũng là sự kì vọng về tinh thần hội nhập nhưng biết giữ gìn văn hóa đối với thế hệ mai sau. Đây chính là nội dung triết lí sâu sắc, một cấu trúc quy nạp đấm chất trữ tình đầy sáng tạo của nhà thơ.
VI. Chủ đề tư tưởng và đặc điểm nghệ thuật:
1. Nghệ thuật:
Đọan thơ trích trong chương V, giàu chất trữ tình chính luận, vừa đc viết bằng chiều sâu trí tuệ, chiều cao văn hóa, vừa đc viết bằng những rung động mãnh liệt of cảm xúc nên rất dễ đi vào lòng ng. Lời thơ đậm đà chất liệu văn hóa văn học dân gian, đc lấy cảm hứng từ ca dao, dân ca, cổ tích, truyền thuuyết nên đậm đà sắc thái dân tộc, mở ra một đất nứoc thơ mộng trữ tình từ xa xưa vọng về gần gũi, thân thương. Đặc biệt, chương thơ rất ít vần, nó có chất thơ là nhờ vào việc xây dựng hình ảnh, giọng điệu thơ trầm bổng thiết tha, mang âm hưởng of ca dao, dân ca.
2. Nội dung – chủ đề – so sánh:
Tư tưởng đất nước of nhân dân ko phải đến NKĐ mới có. Tư tưởng này đã có một quá trình dài để khẳng định trong lịch sử văn học dân tộc, từ những tác phẩm văn học trugn đại như Bình ngô đại cáo of Nguyễn Trãi, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyển Đình Chiểu. Trong Bình ngô, Nguyễn Trãi viết:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Đó chính là sự đề cao vai trò of nhân dân trong cuộc kháng chiến chống ngọai xâm. Còn trong Văn tế của Nguyễn Đình Chiểu, ca ngợi ng anh hùng giữ nước là ng chíen sĩ nguồn gốc nông dân. Đó là hình ảnh ng nông dân lam lũ, côi cút bứơc vào cuộc chiến đấu, họ hi sinh nhưng là hi sinh bi tráng vì quê hương đất nước.
Đến thơ văn hiện đại như Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Tre Việt Nam của Nguyễn Duy, Lửa đèn của Phạm Tiến Duật, vai trò of nhân dân với Đất nước cũng đã tiếp tục đc đề cao.
Trong Đất nước, Nguyễn Đình Thi viết:
“Ôm đất nước những ng áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”
Còn trong bài Tre VN, nhà thơ đã mượn hình tượng cây tre để nói đến những phẩm chất bình dị of nhân dân trong lao động và chiến đấu để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:
“Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi”
Như vậy, đề cao vai trò nhân dân với đất nứơc là cả một truyền thống lâu dài trong lịch sử văn học dân tộc. Tuy nhiên, để tư tuơởng đó trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm mọi biểu hiện tinh tế nhất của hình tượng đất nứoc, lại đc cảm nhận một cách toàn diện, sâu sắc trên nhiều bình diện thì đó là một đóng góp đặc sắc NKĐ ở chương thơ này. Tác phẩm đã tạo nên những rung động âm vang trong lòng ng đọc chính là nhờ những cảm xúc chân thành từ sự trải nghiệm của bản thân mà nói lên những suy nghĩ chung của cả thể hệ đối với đất nước. Góp thêm một thành công cho dòng thi ca về đất nước, làm sâu sắc thêm những nhận thức về đất nước và nhân dân bằng tiếng nói nghệ thuật đậm đã chất dân gian là vẻ đẹp riêng của chương thơ Đất nước of NKĐ.
————-
Bài làm 1:
Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim con người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm.
Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân. Tư tưởng ấy đã qui tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước.
Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước.
Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất Nước hiện hình trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre trước ngõ… gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược. Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc.
Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của một dân tộc giầu truyền thống văn hóa, giàu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia đình. Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Gừng tất nhiên là cay, muối tất nhiên là mặn. Tình yêu cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia. Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của một ai đó hôm nào: Tay bưng dĩa muối chén gừng, Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.
Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà cửa:
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó.
Ở đây Đất nước không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và giản gị biết bao. Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng của mình về đất nước với quan niệm “Đất nước của nhân dân”.
Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nươc là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lí mênh mông từ rừng đến bể mà còn được cảm nhận bởi không gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, không gian của tình yêu đôi lứa, không gian của nỗi nhớ thương. Ý nịêm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với những liên
tưởng gợi ra từ đó. Sử dụng lối chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh.
Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền. Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn. Không những thế, đất nước còn người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những người đang yêu. Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể, còn hòa hợp khi anh và em kết lại thành ta. Chiếc khăn – biểu tượng của nỗi nhớ thương – đã từng làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng: “Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất …”, một lần nữa lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của những tâm hồn yêu thương say đắm.
Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương. Hình ảnh con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả. Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về. Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng về cội nguồn.
Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian: Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ. Nhắc lại Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn của dân tộc . Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình.
Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng, tự do nhưng thật ra đây là một hệ thống lập luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương diện: trong chiều rộng của không gian lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian lịch sử, trong bề dày của văn hóa – phong tục, lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc.
Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện nào thì tư tưởng đất nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt lõi, nó như một hệ qui chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ.
Và cụ thể hơn nữa, gần gũi hơn nữa, Đất nước ở ngay trong máu thịt của mỗi chúng ta:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi con người, vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi con người mà là của cả đất nước. Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước, phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên đất nước muôn đời.
Từ những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác phẩm tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng: Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là người đã sáng tạo ra Đất nước.
Tư tưởng đó đã dẫn đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước. Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên… không còn là những cảnh thú thiên nhiên nữa mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên tuổi: “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”, “Người học trò thắng cảnh”. Ở đây cảnh vật thiên nhiên qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông. Từ những hình ảnh, những cảnh vật, những hiện tượng cụ thể, nhà thơ qui nạp thành một khái quát sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ca ngợi các triều đại, không nói đến những anh hùng được sử sách lưu danh mà chỉ tập trung nói đến những con người vô danh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người vô danh bình dị đó.
Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước
Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau các giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, câu tục ngữ, ca dao. Mạch cảm xúc lắng tụ lại để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởn cốt lõi của cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo:
Đất nước này là Đất nước nhân dân
Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại
Một định nghĩa giản dị, bất ngờ về Đất nước. Đất nước của ca dao thần thoại nhưng vẫn thể hiện những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, của dân tộc: Thật đắm say trong tình yêu, biết quí trọng tình nghĩa và cũng thật quyết liệt trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với một tâm hồn lạc quan phơi phới. Tất cả ào ạt tuôn chảy trong tâm trí người đọc những tí tách reo vui…
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về Đất nước. Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất nước không còn xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng. Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại.
Bài làm 2:
Nhà thơ nhà văn Nguyễn Khoa Điềm không có nhiều tác phẩm nhưng những tập thơ của ông luôn được độc giả đón nhận và yêu thích. Trong đó không thể không nhắc đến trường ca “Mặt đường khát vọng” vô cùng nổi tiếng mà ta thường biết đến thông qua bài thơ “Đất Nước”. Bài thơ này được trích từ chương V của trường ca. Đây đuợc xem là chương hay và sâu sắc nhất. Tác giả chia đoạn thơ thành 5 khổ, mỗi khổ ứng với một luận điểm, nhưng đều nhằm một mục đích đó là làm sáng tỏ tư tưởng: “Đất nước này là Đất Nước Nhân dân”. Chính luồng tư tưởng này đã thôi thúc tuổi trẻ các tỉnh Miền Nam tham gia chiến đấu giành độc lập cho nước nhà. Không những thế, nó đã khơi dậy niềm tự hào dân tộc của nhân dân ta. Bên cạnh đó, Nguyễn Khoa Điềm trình bày rất nghệ thuật nhiều cảm nhận, lý giải mới về đất nước. Từ đó, ta hiểu thêm tính chính luận – trữ tình của thơ ông nói riêng và thơ chống Mỹ nói chung.
Câu thơ đầu của đoạn rất đỗi nhẹ nhàng, bình dị nhưng lại vô cùng hàm súc:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”.
Bốn từ “ngày xửa ngày xưa” sao quá đỗi quen thuộc với chúng ta. Nó xuất hiện trong những câu chuyện cổ tích bà kể, trong những lời ru tha thiết của mẹ mỗi khi đêm về. Từ lâu nó đã như là một yếu tố không thể thiếu dể tạo nên không gian riêng
của nàng Tấm, Hoàng Tử, của Mai An Tiêm… Nay, nó đã đi vào văn chương Việt Nam tạo nên một định nghĩa rất bất ngờ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. Trong Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt, đất nước hiện ra thông qua hình ảnh “Vua chúa” và “sách trời”:
“Nam quốc sơn hà Nam Đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư”
(Nam Quốc Sơn Hà)
Hay như trong “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” của nhà thơ Nguyễn Đỉnh Chiểu:
“Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói loà đâu dung lũ treo dê bán chó”
(Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc)
Những từ như “mối xa thư đồ sộ” hay “hai vầng nhật nguyệt chói loà” đã trang trọng hoá đất nước. Nó thể hiện sự kì vĩ và cao cả nhưng cũng tạo một khoảng cách thiêng liêng của con người đối với Đất Nước. Nhưng với Nhuyễn Khoa Điềm thì lại khác. Nhà thơ đã xoá bỏ khoảng cách đó. Đất nước đã hoá thân vào những câu chuyện cổ tích hay những câu ca dao rất đỗi quen thuộc và hiện ra thật bình dị và gần gũi.
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Tứ thơ này làm sống lại nhiều câu tục ngữ, ca dao và truyện Trầu cau bi thương, tình nghĩa. Qua hình ảnh “miếng trầu”, Nguyễn Khoa Điềm “nhân dân hóa” thơ mình và có thêm một bằng chứng về đất nước hình thành từ xa xưa. Và Đất Nước cứ lớn dần lên cùng các truyền thống như trồng tre, trồng lúa, đánh đuổi giặc ngoại xâm.
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Tác giả đã dành một lời ngợi ca, một sự trân trọng đối với tình nghĩa vợ chồng khi nói đến “cha mẹ”. Sự thuỷ chung son sắt trải bao gian khó nhọc nhằn được ông đề cao. Vì cuộc sống bấp bênh, đủ mọi khó khăn vất vả, chỉ có “gừng cay” và “muối mặn” chứ ít khi ngọt ngào. Tuy nhiên “cha mẹ” vẫn dành cho nhau sự yêu thương là một điều rất đáng quý. Ở câu thơ này, thay vì dùng chữ “yêu” tác giả lại chọn từ “thương” để đưa vào. Bởi vì ông muốn thơ của mình giản dị và gần với văn học bình dân hơn, gần với nhân dân hơn. Cũng như tác giả mượn hình ảnh “gừng cay muối mặn” từ câu ca dao để thể hiện tình cảm vợ chồng.
“Tay nâng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Rồi đến khi “Cái kèo cái cột thành tên” thì dân tộc ta đã bước sang một sự phát triển mới. Ngành nông nghiệp lúa nước ra đời giúp cho cuộc sống nhân dân bớt cơ cực mặc dù cũng phải “một nắng hai sương” theo từng hạt gạo.
Câu cuối của khổ thơ này, tác giả đúc kết và khẳng định lại một lần nữa về sự ra đời cùa Đất Nước:
“Đất Nước có từ ngày đó…”
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã khai thác và sử dựng triệt để vốn văn hoá dân gian sẵn có, sáng tạo lại khiến cho người đọc cảm thấy rất gần gũi và bất ngờ. Trong suốt quá trình phát triển của Đất Nước, ta dều thấy bóng dáng của những con người. Đó là cơ sở vững chắc để tác giả tiếp tục triển khai tư tưởng Đất Nước này là đất Nước Nhân dân ở 3 khổ thơ sau.
Một không gian khác được tác giả mở ra vô cùng khéo léo khi ông tách đôi 2 âm tiết “Đất Nước”.
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm ”
Trình tự “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”, tưởng như tình cờ mà không sao đảo ngược. Nếu thay đổi dưới dạng: Đất là nơi em đến trường, Nước là nơi anh tắm, cảm hứng thơ sẽ tan biến. Dòng viết trên thành một câu văn xuôi rất đỗi bình thường.
Văn hoá dân gian là của nhân dân. Để khẳng định tư tưởng của mình tác giả đã vận dụng chất liệu dân gian vào trong văn thơ của mình. ”Đất nước là của nhân dân” nên việc đưa chất trữ tình của dân gian tạo được hiệu quả cao trong việc xây dựng hình tượng đất nước, qua đó ta thấy được sự sáng tạo cũng như độc đáo trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm. Câu thơ:” Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” là một ví dụ. Hẳn ta chưa quên câu ca dao rất đỗi ngọt ngào:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt…”
Vận dụng ý từ câu ca dao trên, tác giả đã viết nên dòng thơ đậm chất dân gian nhưng không kém phần độc đáo, tạo nên một phong cách rất riêng của nhà thơ.
Hai câu thơ tiếp theo hình tượng Đất Nước được biến hoá vô cùng sinh động:
“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Con chim phượng hoàng và cá ngư ông là hai con vật linh thiêng được nhân dân ta thờ phụng, nay đưa vào trong văn thơ của Nguyễn Khoa Điềm rất gần gũi. Giữa người và thần dường như không hề có sự ngăn cách, tất cả như hoà vào nhau bình đẳng. Một lần nữa, nhà thơ đã đưa Đất Nước từ của thần linh trở thành Đất Nước của nhân dân. Và chính tư tưởng đó đã giúp tác giả khám phá Đất Nước trên những khía cạnh khác nhau. Mở đầu là “Thời gian đằng đẵng”. Xuôi theo dòng lịch sử, Nguyễn Khoa Điềm ghi lại những truyền thuyết, phong tục dân gian vốn rất quen thuộc với chúng ta.
“Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hàng năm ăn đâu ở đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Song song với quá trình tách – hợp, là sự hài hòa trong mối quan hệ: “anh” – “em” thành “ta” và “Chim về”, “Rồng ở” tạo nên mối tình Lạc Long Quân – Âu Cơ. Qua các câu thơ, tác giả cho ta thấy: đất nước bắt đầu hình thành, “lớn lên” như những mối tình thân thiết, yêu thương. Dây là quãng thời gian thấm đẫm cội nguồn, thể hiện ước muốn ngược dòng thời gian trở về cội nguồn, lịch sử hình thành Đất Nước. Nó khoác lên “Đất Nước” một vẻ đẹp lạ lùng, lấp lánh chất huyền thoại. Đất
Nước không đơn thuần chỉ là núi song. Đó là nơi Lạc Long Quân và Âu Cơ yêu nhau, đó là nơi dân mình được sinh ra và đoàn tụ. Từ đó, đất nước thành không gian của mọi người, của cộng đồng.
Bên cạnh đó, tác giả còn đánh thức tình cảm tổ tiên tình yêu quê hương đất nước. Thấm thía nhất là hai câu thơ:
“Hàng năm ăn đâu ở đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Mùng 10 tháng 3 hàng năm, người Việt ta có phong tục Giỗ Tổ Hùng Vương để tôn vinh những ông vua có công dựng nước. Nhà thơ sử dụng 2 chữ “cúi đầu” với vẻ tôn kính và ngưỡng mộ. Nó như một bàn tay khẽ chạm vào tiềm thức của mỗi người con yêu nước, dù ở phương nào cũng phải biết thờ phụng ông bà tổ tiên mình. Nguyễn Khoa Điềm đã rất ý nhị trong việc khơi gợi lòng yêu Đất Nước trong mỗi con người.
Qua khổ thơ thứ hai, đất nước được cảm nhận như sự thống nhất hài hòa giữa cái hàng ngày và vĩnh hằng, trong mỗi cá nhân và toàn dân tộc, trong quá khứ, hôm nay và mai sau. Từ suy ngẫm trên, Nguyễn Khoa Điềm kết luận:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
Trong mỗi chúng ta đều có bóng hình của Đất Nước, gắn bó rất chặt chẽ. Thế nên chúng ta phải biết giữ gìn và bảo vệ nó. Đất Nước trọn vẹn khi dân mình biết chở che cho nhau, đoàn kết lại. Lúc ấy Đất Nước sẽ vô cùng mạnh mẽ, bất khuất. Nhà thơ mong muốn thế hệ sau này cũng sẽ yêu quý Đất Nước, phát triển nó như những gì thế hệ trước đã và đang làm. Kết lại khổ thơ, tác giả nhắn nhủ đến mọi người:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và chia sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
Đó không chỉ là mong muốn của riêng nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mà đó còn là những gì tổ tiên, ông bà trông đợi nơi ta, những người con của thế hệ sau sẽ cố gắng thực hiện. Từ “phải” như là một mệnh lệnh. Nhưng đó là mệnh lệnh của trái tim, của ý thức trong mỗi chúng ta.
Ở khổ thơ thứ 3, tư tưởng “đất nước nhân dân” còn được thể hiện qua cách cảm nhận sâu sắc, độc đáo về phương diện địa lý.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước nhựng núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên những hòn Trống mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao hồ để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học tró nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuôc đời đã hoá núi sông ta…”
Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái rồi Hạ Long… chỉ thành thắng cảnh khi gắn liền với đời sống văn hóa dân tộc, được cảm thụ qua tâm hồn quần chúng và lịch sử đất nước. Theo lối quy nạp, từ những dẫn chứng cụ thể, nhà thơ đi đến nhận xét tổng quát:
“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuôc đời đã hoá núi sông ta…”
Trong không gian địa lý, trên khắp ruộng đồng gò bãi, Nguyễn Khoa Điềm đều thấy dấu tích nhân dân để lại… Chính diều này đã thể hiện mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân và đất nước.
Bốn nghìn năm đối với Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là thời gian. Với con mắt sắc sảo của mình, nhà thơ còn nhìn thấy những điều tưởng chừng như rất bình dị nhưng lại vô cùng quan trọng.
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh va em đều nhớ
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Nếu ở khổ 2 và 3 là cái nhìn gần, thời hiện tại thì ở đây là cái nhìn xa, nhìn về quá khứ, theo dòng thời gian trở về buổi đầu dựng nước. Trong “Bình Ngô Đại Cáo”, Nguyễn Trãi đã tổng kết lịch sử bằng các triều đại:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”
Nhưng Nguyễn Khoa Điềm không làm như vậy. Ông nhấn mạnh vai trò của những người trẻ tuổi vô danh. Những người đã giữ gìn, truyền lại cho con cháu mọi giá trị tinh thần, vật chất. Không chỉ bảo vệ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã tên làng qua các cuộc đi xa mà họ còn quyết tâm đánh giặc bảo vệ quê hương Đất Nước. Bằng cách này, tác giả đã trả lại Đất Nước cho những người chủ chân chính, những người đã góp bao công sức trong thầm lặng xây dựng nên Đất Nước. Đây là một cách nhìn rất mới trong thơ văn yêu nước, củng cố thêm cho tư tưởng của tác giả.
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho ngừơi sau trồng cây hái trái”
Đại từ “họ” được lặp đi lặp lại, đặt ở đầu câu làm nổi bật vai trò của nhân dân, những ai đã làm ra sản phẫm vật chất, tinh thần cua Đất Nước. Hàng loat dộng từ như “giữ”, ”truyền”, “gánh” được tác giả sử dụng để tạo nên hình tượng người dân thật lực lưỡng, khỏe mạnh không hề mệt mỏi trong công cuộc dựng xây và bảo vệ Tổ Quốc. Nhân dân đã đem cả cuộc đời đóng góp, phát triển và bảo tồn mọi giá trị vật chất cũng như tinh thần cho con cháu. Vậy nên nói “Đất Nước là của Nhân dân” chẳng hề sai.
Thơ của Nguyễn Khoa Điềm là một thế giới nên thơ, mộc mạc và rất dân dã. Nó lấp lánh những câu ca dao, những câu chuyện cổ tích khi xưa. Cũng chính nhờ điều đó mà ta thấy nhân dân hiện diện xuyên suốt toàn bài thơ. Từ nền văn hoá dân gian ấy, tác giả khám phá ra vẻ đẹp tâm hồn, tính cách người Việt Nam chung thuỷ, có nghĩa có tình nhưng lại rất cứng rắn trước quân thù.
“Dạy anh biết “yêu em từ thưở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm năm dáng sông xuôi…”
Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” đã có quá trình phát triển lâu dài nhưng chỉ đến văn học Việt Nam hiện đại, nhận thức ấy mới đạt tới đỉnh cao, mang một sắc thái mới lạ và thuyết phục.
“Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Hai câu thơ, hai vế song song, đồng đẳng là một cách định nghĩa mới về đất nước. Đỉnh cao của tính chính luận và cảm xúc trữ tình hội tụ trong câu: “Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân”. Chân lý ấy thể hiện đầy đủ trong ca dao. Bởi vậy, ngoài việc nhấn mạnh qua từ “để”, tác giả còn láy lại điệp khúc “Đất Nước của ca dao thần thoại”. Đây là kết quả tất yếu của một thời đại nhân dân thực sựlàm chủ đời mình, làm chủ Đất Nước.
Qua đoạn thơ, ta thấy sự vận dụng sáng tạo văn học dân gian của Nguyễn Khoa Điềm. Ông ít lặp lại nguyên văn mà thường sử dụng từng ý, từng hình ảnh thơ của người xưa. Giọng chính luận – trữ tình phù hợp với nội dung tác phẩm. Thực ra, tư tưởng đất nước nhân dân đã hình thành từ lâu. Nguyễn Khoa Điềm chỉ nâng cao tầm tư tưởng ấy và diễn đạt nó bằng ngôn từ, giọng điệu mới, độc đáo. Ông tạo được một đoạn thơ hiện đại đậm đà bản sắc dân gian. Bởi vậy, thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa quen vừa lạ và có sức thuyết phục cao.
Bài làm 3:
Cùng với các nhà thơ thế hệ chống Mỹ lúc bấy giờ, Nguyễn Khoa Điềm cũng hướng ngòi bút của mình đến một chủ đề lớn lao của thơ ca đương thời đó chính là đất nước. Tuy nhiên hình ảnh “đất nước” trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ có đau thương mất mát hay chỉ có những cảnh sơn hà hùng vì mà “đất nước” hiện lên trọn vẹn qua những suy nghĩ và cảm nhận hết sức mới mẻ. Đoạn trích “Đất nước” trong trường ca “Mặt đường khát vọng” chính là một định nghĩa đủ đầy về đất nước và qua đó cũng thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi của tác phẩm: Đất nước là của nhân dân.
Mở đầu bài thơ là lời tâm tình sâu lắng đưa ta về với cội nguồn:
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng
Đất nước có từ ngày đó…
Trong đoạn thơ này của Nguyễn Khoa Điềm có thể thấy răng, đất nước không phải là cái gì trừu tượng, xa xôi mà đất nước chính là những gì thân thuộc và gần gũi nhất. Trong câu chuyện ngày xửa ngày xưa, trong miếng trầu của bà ăn, trong dáng tre bất khuất kiên cường, trong những phục tục tập quán, trong hạt gạo nấu những bữa cơm hàng ngày… đều hiện hình lên một đất nước Việt Nam anh hùng, tình nghĩa, giản dị mà thân thương nhất. Đây có thể nói là một định nghĩa về đất nước hoàn toàn mới và hoàn toàn thiết thực nhất, rõ ràng nhất.
Với Nguyễn Khoa Điềm, “đất nước” không chỉ là những khoảng giới hạn về không gian địa lý mà ở đây nó còn có chiều dài thời gian lịch sử và chiều sâu văn hóa. Không những thế, “đất nước” còn là tình yêu đôi lứa, có trong tình yêu đôi lứa:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…
Đất và nước tách riêng, từng phần đều tượng trưng cho những điều gần gũi nhất. Là nơi anh đến trường, là nơi em tắm hàng ngày. Thế nhưng khi “ta hò hẹn” thành một đôi trọn vẹn thì cũng như đất nước gộp lại vẹn tròn. Với phát hiện mới mẻ này, Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ ra rằng: Đất nước không chỉ bên ta, xung quanh ta và còn có cả ở trong ta.
Đất nước là nơi khởi đầu cho những câu chuyện xa xưa, cho những câu ca dao tục ngữ, điển tích điển cố và tất thảy mọi sự sinh thành. Hình ảnh “con chim phượng hoàng”, “núi Bà Đen, Bà Điểm”, “Lạc Long Quân Âu Cơ” là những minh chứng cho đất nước hào hùng nghìn năm văn hiến của chúng ta. Nhớ về đất nước cũng chính là nhớ về cội nguồn, hiểu được vì sao chúng ta được sinh ra. Chính vì thế, đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự tiếp nối truyền thống:
Những ai đã khuất Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Biết bao thế hệ cha ông ta đã ngã xuống để boa vệ đất nước, bảo vệ núi sông bờ cõi. Đó là cả một chiều dài lịch sử hào hùng rất tự hào của dân tộc ta. Chính vì thế, con cháu đời sau phải tiếp tục gìn giữ truyền thống ấy. Truyền thống yêu nước, thương nòi, sẵn sàng chiến đấu để bỏa vệ non sông cho những thế hệ về sau. Và cho đến hôm nay, “trong và em” “đều có một phần đất nước”. Phần đất nước ấy là phần máu thịt, là một phần trách nhiệm phải giữ gìn và xây dựng, phần tình yêu để bảo vệ đất nước cho con cháu mai sau.
Vì có những người đã không quản ngại thân mình hy sinh cho đất nước, làm nên đất nước cho nên:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Khi nói về 4000 năm lịch sử của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không hề kể về những vương triều hay những anh hùng nổi tiếng mà lại nhấn mạnh “người làm ra đất nước” lại chính là những con người bình dị vô danh. Chính họ chứ không phải ai khác đã gìn giữ và truyền lại hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ cho đời sau. Và từ chính những con người vô danh làm nên đất nước bao năm qua đã giúp tác giả khẳng định:
Đất nước này là đất nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại
Với câu thơ sau, hai vế song song nhân dân – đất nước lại càng khẳng định đất nước chính là kết tinh những giá trị tinh thần cao quý trong đời sống trí tuệ và tình cảm của nhân dân. Những giá trị ấy đã kết tinh lại trong những câu ca dao, tục ngữ, trong những câu chuyện thần thoại cổ tích của cha ông ta để lại. Đinh nghĩa về đất nước đến đây vừa giản dị nhưng cũng vừa lớn lao, sâu sắc.
Đất nước đã được khẳng định là của nhân dân và cũng là của anh, của em, và:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời
Đoạn thơ thân tình như một lời nhắn nhủ thiết tha, chân thành: sự sống của chúng ta không chỉ do cha mẹ sinh thành mà còn vì đất nước nuôi dưỡng. Chính vì thế mỗi chúng ta cần phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển nó và truyền lại cho những thế hệ tiếp theo.
Đất nước được xem là một đề tài, cảm hứng chủ đạo của thơ ca thời kì kháng chiến chống Mĩ. Nguyễn Khoa Điềm đã nhận thức sâu sắc vai trò và sự đóng góp to lớn của nhân dân trong cuộc đấu tranh trường kì và vô cùng ác liệt này. Chính vì thế mà tư tưởng đất nước của nhân dân từ trong văn học truyền thống đã được nhà thơ phát triển đến đỉnh cao, mang tính dân chủ sâu sắc. Chất liệu văn hóa dân gian được sử dụng nhuần nhuyễn, biến đổi linh hoạt đầy sáng tạo chính là nét đặc sắc thẩm mĩ và thống nhất với tư tưởng “đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại” của bài thơ.