Home / Ngữ Văn 12 / Tổng hợp Kiến thức cơ bản và những Đề thi về Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Tổng hợp Kiến thức cơ bản và những Đề thi về Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Kiến thức cơ bản và những Đề thi về Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Phần 1 : Những đề thi về Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Về tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân các em ôn tập theo định hướng sau nhé :
Ví dụ như thi vào Người lái đò sông Đà thì có những dạng đề nào ?

Dạng 1 : Nghị luận ý kiến bàn về văn học. Có những nội dung chính cần ôn tập như : nhân vật ông lái đò,vẻ đẹp sông Đà, hoặc ý kiến bàn về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm này.

Dạng 2 : Dạng đề so sánh
Ví dụ : So sánh Huấn Cao ( Chữ người tử tù ) và ông lái đò
Ví dụ khác :So sánh hai đoạn văn miêu tả sông Đà và Sông Hương ( Ai đã đặt tên cho dòng sông– Hoàng Phủ Ngọc Tường)

Dang 3 : Cảm nhận về đoạn trích văn xuôi
Ví dụ : Đề bài trích dẫn đoạn văn miêu tả dòng sông, hoặc đoạn miêu tả cuộc chiến của ông lái đò với dòng sông, và yêu cầu học sinh nêu cảm nhận.

Một số đoạn trọng tâm :
– Cảm nhận đoạn văn: “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá…gậy đánh phèn”
– Cảm nhận đoạn văn : “Thạch trận dàn bày vừa xong…Thế là hết thác”. (Đoạn này chủ yếu phân tích cảnh vượt thác của người lái đò.
– Cảm nhận đoạn: “Con sông Đà tuôn dài…nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. (Chủ yếu là vẻ đẹp trữ tình)

Dạng 4 : Cảm nhận về hình tượng Sông Đà, hình tượng ông lái đò.
Với tác phẩm này, các em chú ý phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân , đây cũng là nội dung cơ bản thường xuất hiện trong đề thi.
Ví dụ : Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng sông Đà trong đoạn trích . Từ đó, anh (chị) hãy đánh giá sự độc đáo trong quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân được thể hiện qua hình tượng trên.

Đáp án:
Bài viết cần có những ý chính sau
* Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề cần nghị luận
*Giải quyết vấn đề:
a. Hình tượng sông Đà hung bạo
– Hình tượng sông Đà hung bạo: được khám phá chủ yếu ở khúc thượng nguồn nhiều ghềnh lắm thác- Sông Đà dữ dội trước hết ở những vách đá dựng thẳng đứng
– Sông Đà dữ dội còn bởi cảnh ghềnh đá dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm..
– Sông Đà hung bạo bởi những hút nước giống như những cái giếng bê tông…Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc…
– Sự dữ dội của sông Đà còn được biểu hiện qua tiếng thác nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên…
– Sông Đà chỉ thực sự bộc lộ đầy đủ tính cách hung bạo trong cuộc giao chiến với con người tại thạch trận
+ Sông Đà bày thạch trận hiểm ác mai phục sẵn để quyết tiêu diệt bất cứ người lái đò nào đi qua. Đội quân thạch trận hùng hậu từ đá tướng đến đá tiền vệ, hậu vệ với những boongke chìm, pháo đài đá nổi
+ Chúng trổ đủ mưu ma chước quỷ để lừa người lái đò vào tập đoàn cửa tử với ba trùng vi đã bày sẵn
+ Khi dụ được thuyền tiến sâu vào thế trận, sông Đà giở đủ các chiến thuật: đánh khuýp quật vu hồi, đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đòn âm vào chỗ hiểm; sóng nước hò la vang dậy để uy hiếp tinh thần đối phương…
Sông Đà được miêu tả với diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một của con người.

b. Hình tượng sông Đà trữ tình:
– Vẻ đẹp này của sông Đà được tập trung miêu tả ở khúc hạ lưu, dòng sông chảy êm ả nơi thoáng rộng, bằng phẳng
– Nguyễn Tuân quan sát sông Đà từ điểm nhìn rất động để giúp người đọc nhận ra vẻ đẹp trữ tình của con sông:
+ Từ xa, trên cao, sông Đà như một giai nhân tuyệt sắc, duyên dáng, yêu kiều với dòng chảy tuôn dài, tuôn dài như một mái tóc trữ tình…
+ Theo dòng chảy của mùa, tác giả phát hiện màu nước sông Đà thay đổi theo mùa: mùa xuân dòng xanh ngọc bích… mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da một người bầm đi vì rượu bữa
+ Ngắm con sông bằng cảm giác của một người đi rừng lâu ngày mong tìm chỗ thoáng, nhà văn phát hiện ra sông Đà như một cố nhân xa lâu thì nhớ, gặp lại thấy đằm đằm ấm ấm, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm…
+ Ngồi thuyền đi trên mặt sông, tác giả lại đem đến cho người đọc cảm nhận sống Đà giống như một người tình nhân chưa quen biết.
Sông Đà thật quyến rũ nên thơ, gợi cảm với cảnh bờ bãi lặng lẽ… hoang dại như một bờ tiền sử, hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa, nương ngô đang nhú mấy lá ngô non, cỏ gianh đồi núi đang ra những nón búp, con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ dương, cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sống… Một bức tranh sông nước cổ kính, hoang sơ, huyền ảo, bình yên, trù phú

c. Đánh giá ý nghĩa, vai trò của hình tượng
– Hình tượng sông Đà biểu trưng cho chất vàng mười của thiên nhiên Tây Bắc – 1 hiện diện của cái Đẹp mà nhà văn khao khát kiếm tìm và thể hiện trong các sáng tác sau cách mạng
– Hình tượng sông Đà là phông nền để nhà văn khắc hoạ nổi bật vẻ đẹp trí dũng tuyệt vời, chất tài hoa nghệ sĩ của hình tượng ông lái đò
– Từ hình tượng sông Đà, người đọc cảm nhận được lòng yêu nước, tinh thần dân tộc mang sắc thái riêng của Nguyễn Tuân
– Hình tượng sông Đà thể hiện sự độc đáo trong quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân sau cách mạng:
+ Sau cách mạng, Nguyễn Tuân vẫn là người say mê khao khát cái Đẹp, nhưng Nguyễn Tuân đã biết tìm kiếm và khai thác Cái Đẹp trong lòng cuộc sống của cả dân tộc
+ Nguyễn Tuân vẫn luôn đi tìm vẻ đẹp độc đáo của cuộc sống, vì vậy ông đã bị sông Đà cuốn hút bởi sự khác thường:
“Chúng thuỷ giai Đông tẩu / Đà giang độc Bắc lưu”
+ Nguyễn Tuân trước và sau cách mạng luôn nhìn sự vật ở phương diện văn hoá, mĩ thuật. Với cách nhìn này, sông Đà trong mắt ông hiện lên như một kì quan của tạo hoá
+ Nguyễn Tuân còn quan niệm cái đẹp phải gây ấn tượng mạnh. Vì vậy, ông thường miêu tả những cảnh đẹp tuyệt đích: hoặc phải thơ mộng, trữ tình đến mức tuyệt mĩ, hoặc hoành tráng đến dữ dội, dữ dằn. Sông Đà hội tụ được cả hai vẻ đẹp ấy.

d. Nghệ thuật xây dựng hình tượng
Hình tượng sông Đà được xây dựng dựa trên:
– Các thủ pháp đối lập, nhân hoá, so sánh
– Những liên tưởng, tưởng tượng táo bạo, bất ngờ- Hệ thống ngôn từ giàu có, phong phú, thể hiện vốn sống, vốn kiến thức uyên bác của tác giả thuộc nhiều ngành: lịch sử, thơ ca, hội hoạ, quân sự, thể thao
Kết thúc vấn đề:
– Đánh giá khái quát vấn đề
– Có thể nêu suy nghĩ riêng của bản thân

Phần 2 : Tổng hợp kiến thức cơ bản về Người lái đò sông Đà
I. Giới thiệu tác giả và tác phẩm:
Nguyễn Tuân sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn. Ông là một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, có cá tính độc đáo. Là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân sáng tác nhiều thể loại song đặc biệt thành công ở thể tùy bút. Tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân về thể loại này là tùy bút “Người lái đò Sông Đà”.

II. Khái quát về tác phẩm:
“Người lái đò Sông Đà” được Nguyễn Tuân sáng tác sau những chuyến đi thực tế gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn. Bài tùy bút được in trong tập “Sông Đà” xuất bản năm 1960. Nội dung bài tùy bút là miêu tả con Sông Đà và hình ảnh người lái đò vượt thác.

III. Nội dung đoạn trích:
Hình tượng con sông Đà
Con sông Đà trên trang văn của Nguyễn Tuân hiện lên như một “nhân vật” có hai tính cách trái ngược: hùng vĩ, hung bạo và trữ tình, thơ mộng.

1. Con sông Đà hùng vĩ, hung bạo:
– Con sông Đà hũng vĩ, hung bạo được tác giả khắc họa theo trình tự không gian, bằng nhiều chi tiết đặc sắc. Trước hết Sông Đà hùng vĩ ở cảnh “đá bờ sông dựng vách thành”, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc “đúng ngọ” (lúc giữa trưa) mới có mặt trời. Có vách đá chẹt lòng sông “như một cái yết hầu”, có quãng con nai, con hổ có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Vì lòng sông hẹp, bờ sông là vách đá cao, nên ngồi trong khoang đò ở quãng sông ấy “đang mùa hè mà cũng thấy lạnh.”

– Cảnh hùng vĩ của Sông Đà còn thể hiện ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng với hàng cây số “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Đây là nơi nguy hiểm, người lái đò nào đi qua khúc sông này mà không thận trọng tay lái thì “dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.

– Sông Đà hùng vĩ còn ở những cái “hút nước” trên sông ở quãng Tà Mường Vát. Đó là những xoáy nước khổng lồ, được tác giả so sánh “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Nước ở đây “thở và kêu như của cống cái bị sặc”. Đây là nơi rất nguy hiểm, không có thuyền nào dám men gần những cái “hút nước” ấy. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay “cây chuối ngược” rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy “tan xác” ở khuỷnh sông dưới. Tác giả đã tưởng tượng: có người quay phim táo tợn, ngồi trên chiếc thuyền thúng, rồi xuống đáy “cái hút” Sông Đà mà thu hình thì sẽ có những thước phim ấn tượng, gây cảm giác sợ hãi cho người xem.

– Nhưng hùng vĩ nhất, hung bạo nhất là thác Sông Đà. Thác Sông Đà có âm thanh dữ dội, nhiều vẻ, được tác giả miêu tả: Còn xa lắm mới đến cái thác dưới mà đã nghe thấy tiếng nước “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, so sánh độc đáo: tiếng nước thác nghe như là “oán trách”, như là “van xin”, như là “khiêu khích”, rồi rống lên “như tiếng một ngàn con trâu mộng” gầm thét khi bị cháy rừng.

– Hình ảnh thác Sông Đà là cả một “chân trời đá”. Mỗi hòn đá mang một dáng vẻ, nhưng mặt hòn đá nào trong cũng “ngỗ ngược… nhăn nhúm, méo mó”. Sông Đà hình như đã giao nhiệm vụ cho mỗi hòn đá và bày ra “thạch trận” để gây khó khăn, nguy hiểm cho những con thuyền. “Thạch trận” Sông Đà có ba vòng vây. Vòng thứ nhất, thác Sông Đà mở ra “năm cửa trận”, có bốn “cửa tử”, một “cửa sinh” nằm lập lờ ở phía tả ngạn. Vòng thứ hai, thác Sông Đà lại “tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền”, cũng chỉ có một “cửa sinh” nhưng lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn nhưng bên phải, bên trái đều là “luồng chết” cả, cái “luồng sống” ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác.
– Thác Sông Đà quả thực đã trở thành một loài thủy quái khổng lồ với tâm địa độc ác. Với đặc điểm này, trong cái nhìn của tác giả, Sông Đà có nhiều lúc đã trở thành “kẻ thù số một” của con người.

2. Con sông Đà trữ tình, thơ mộng.
– Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của Sông Đà được tác giả quan sát và miêu tả ở nhiều góc độ, điểm nhìn, không gian và thời gian khác nhau. Quan sát từ trên cao, Sông Đà có dòng chảy uốn lượn, con sông như mái tóc người thiếu nữ Tây Bắc kiều diễm. Sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Nước Sông Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng: mùa xuân “dòng xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Những chi tiết miêu tả của tác giả gợi lên một liên tưởng thú vị: giữa khung cảnh ngày xuân thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, Sông Đà hiện lên như một mĩ nhân tràn đầy xuân sắc, một thiếu nữ đương độ xuân thì.

– Sau chuyến đi rừng dài ngày, từ bờ sông, tác giả đã thấy Sông Đà thật gợi cảm “như một cố nhân”. Nhìn mặt nước Sông Đà thấy “loang loáng như như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Đó là “màu nắng tháng ba Đường thi”, cùng với hình ảnh bờ Sông Đà, bãi Sông Đà đầy những “chuồn chuồn bươm bướm” tạo nên một cảnh sắc hấp dẫn. Nhà văn đã bộc lộ cảm xúc khi nhìn con sông bằng những so sánh tài hoa: “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”

– Khi đi trên thuyền, tác giả thấy cảnh vật hai bên bờ Sông Đà vừa hoang sơ nhuốm màu cổ tích vừa trù phú, tràn trề nhựa sống. Ven sông có những nương ngô “nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, có cỏ gianh đồi núi “đang ra những nõn búp”, có “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Nhà văn đã có một liên tưởng độc đáo: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Dòng sông quãng này “lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”.

3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng:
– Tác giả đã miêu tả Sông Đà bằng những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị. Từ ngữ trong bài tùy bút thật phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.
– Câu văn của tác giả rất đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình. Con Sông Đà vô tri, dưới ngòi bút của nhà văn đã trở thành một sinh thể có tâm hồn, tâm trạng.

4. Tóm lại, hình tượng Sông Đà được tác giả khắc họa độc đáo, nổi bật với hai đặc điểm: vừa hung vĩ, hung bạo, vừa thơ mộng, trữ tình. Qua hình tượng con Sông Đà, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, thể hiện tình cảm tha thiết của mình với đất nước. Hình tượng con Sông Đà trong bài tùy bút gợi lên ở người đọc suy nghĩ về trách nhiệm bảo vệ môi trường cho những dòng sông, bởi đó là quà tặng vô giá của thiên nhiên giành cho con người.

Hình tượng người lái đò
1. Tác giả giới thiệu chung về người lái đò:
– Cuộc sống của người lái đò là “cuộc chiến đấu” hằng ngày với thiên nhiên Tây Bắc, có nhiều lúc trông nó ra thành diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một của con người. Trong cuộc mưa sinh đày gian khổ ấy, phẩm chất của người lái đò được bộc lộ một cách rõ nét, thể hiện qua “cuộc chiến đấu gian lao” trên chiến trường Sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận Sông Đà.

2. Người lái đò trí dũng, tài ba, giàu bản lĩnh và kinh nghiệm:
– Phẩm chất của người lái đò được thể hiện qua cuộc vượt tác sông Đà. Thác Sông Đà bày ra “thạch trận” với ba vòng vây để tiêu diệt con thuyền. Nhưng người lái đò dũng cảm, bình tĩnh, hiên ngang vượt qua từng vòng vây của thác.

– Ở vòng vây thứ nhất: Thác Sông Đà mở ra “năm của trận”, có bốn “cửa tử”, một “cửa sinh”. Cửa sinh nằm “lập lờ ở phía tả ngạn”. Khi con thuyền xuất hiện, phối hợp với đá, nước thác reo hò làm “thanh viện” cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Có hòn đá trông nghiêng thì y như là đang hỏi cái thuyền “phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Hòn đá khác thì lùi lại một chút và “thách thức” cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Không một chút nao núng, ông đò hai tay giữ mái chèo để khỏi bị hất lên khi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Nhìn thấy con thuyền và người lái đò, mặt nước “hò la vang dậy”, ùa vào mà “bẻ gãy cán chèo”, võ khí của người lái đò. Sóng nước thì như thể quân liều mạng, vào sát nách mà “đá trái mà thúc gối” vào bụng và hông thuyền, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Nước bám lấy thuyền như đô vật “túm lấy thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”… Ông đò đã bị thương, nhưng ông “cố nén vết thương”, hai chân vẫn “kẹp chặt lấy cuống lái”. Cuộc chiến đã đến hồi quyết liệt, sóng nước “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” vào chỗ hiểm. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy “ngắn gọn tỉnh táo” của người cầm lái. Và ông lái đò đã phá xong cái “trùng vi thạch trận” vòng thứ nhất của thác Sông Đà.

– Không một chút nghỉ tay, ông lái đò tiếp tục phá luôn vòng vây thứ hai của thác Sông Đà. Ở vòng thứ hai này, thác Sông Đà lại “tăng thêm nhiều cửa tử” để đánh lừa con thuyền. Vẫn chỉ có một cửa sinh. Nếu ở vòng thứ nhất, cửa sinh nằm “lập lờ phía tả ngạn”, thì ở vòng thứ hai này, cửa sinh lại “bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn”. Đó chính là khó khăn, thách thức đối với người lái đò. Nhưng ông lái đò đã “thuộc qui luật phục kích” của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Ông hiểu rằng cưỡi lên thác Sông Đà phải “cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Cuộc chiến của ông lái đò ở vòng thứ hai đã bắt đầu. Nắm chặt cái bờm sóng đúng luồng, ông đò ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà “phóng nhanh vào cửa sinh” rồi “lái miết một đường chéo” về phía cửa đá ấy. Thấy con thuyền tiến vào, bốn năm bọn thủy quân bên bờ trái liền “xô ra” định níu con thuyền “lôi vào tập đoàn cửa tử” mà tiêu diệt. Nhưng ông lái đò vẫn “nhớ mặt” bọn này, đứa thì ông tránh mà “rảo bơi chèo lên”, đứa thì ông “đè sấn lên mà chặt đôi ra” để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền, chỉ còn vẳng tiếng reo hò của của sóng thác luồng sinh. Tuy vậy, bọn chúng vẫn “không ngớt khiêu khích”, dù cái thằng đá tướng đứng ở cửa vào đã “tiu nghỉu cái mặt xanh lè” vì bị thua cái thuyền du kích nhỏ bé.

– Vượt qua vòng thứ hai, ông lái đò còn phải vượt qua vòng thứ ba nữa. Ở vòng vây thứ ba này, thác Sông Đà ít cửa hơn nhưng bên phải bên trái đều là “luồng chết” cả. Cái “luồng sống” ở chặng thứ ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Ông lái đò đã hiểu điều đó. Ông cứ “phóng thẳng thuyền” chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền của ông đò “vút qua” cổng đá cánh mở cánh khép với ba tầng cửa: cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng. Con thuyền của ông đò “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được”. Vượt qua vòng vây thứ ba cũng là vượt qua hết thác Sông Đà. Ông lái đò như một người chỉ huy lão luyện, đầy bản lĩnh và kinh nghiệm. Ông là một nghệ sĩ tài hoa với nghề vượt thác leo ghềnh.

3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng:
– Khắc họa hình tượng người lái đò Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc. Miêu tả ông lái đò vượt thác, tác giả đã sử dụng tri thức của nhiều lĩnh vực như thể thao, quân sự, võ thuật…, với những câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, hối hả, gân guốc; với từ ngữ sống động, giàu hình ảnh, mới lạ, độc đáo.

4. Tóm lại, bằng nhiều biện pháp nghệ thuật, nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công hình ảnh người lái đò Sông Đà dũng cảm, tài năng, đầy bản lĩnh và kinh nghiệm. Qua hình tượng người lái đò, tác giả ngợi ca người lao động Tây Bắc với những phẩm chất cao quí.
Hình tượng người lái đò, cũng thể hiện quan niệm của nhà văn: người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày. Hình tượng người lái đò trong bài tùy bút của Nguyễn Tuân gợi ra ở mỗi chúng ta suy nghĩ về nhiệm vụ của mình trong công cuộc xây dựng Tổ quốc Việt Nam yêu quí.

IV. Nghệ thuật đoạn trích:
Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và thú vị. Từ ngữ sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao. Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc khi thì chậm rãi, trừ tình,…

V. Ý nghĩa văn bản:
Giới thiệu, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và người lao động ở miền Tây Bắc của Tổ quốc; thể hiện tình yêu mến, sự gắn bó thiết tha của Nguyễn Tuân đối với đất nước và con người Việt Nam.

Xem thêm:
Phân tích hình tượng người lái đò qua bài tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân
Phân tích các đoạn thơ trong bài “Tây Tiến” của Quang Dũng